Với sự phát triển của công nghệ thông tin ngày nay thì việc ứng dụng nó trong quản lý các chương trình sức khỏe nói chung và trong chương trình phòng, chống HIV/AIDS nói riêng trong những năm gần đây đã có rất nhiều tiến bộ. Nhờ ứng dụng công nghệ số trong quản lý thông tin khách hàng nên việc lưu trữ, trích xuất thông tin của khách hàng bao gồm cả báo cáo cho các cơ quan chức năng khi cần hết sức nhanh chóng và chính xác. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý sức khỏe khách hàng thời gian qua chủ yếu được áp dụng trọng hệ thống các cơ sở y tế nhà nước, nơi được đầu cơ sở vật chất cũng như trình độ cán bộ về công nghệ thông tin tốt hơn.
Với các tổ chức cộng đồng làm trong lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS với chức năng chính là tiếp cận khách hàng để truyền thông, tư vấn và cung cấp dịch vụ bao gồm cả chuyển gửi khách hàng đến các cơ sở y tế để nhận các dịch vụ dự phòng và điều trị HIV/AIDS như PrEP; ARV thì việc quản lý khách hàng cho đến nay vẫn chủ yếu được thực trên trên giấy. Việc quản lý hồ sơ khách hàng bằng giấy theo cách truyền thống có rất nhiều bất cập do lượng khách hàng và thông tin về khách hàng ngày càng nhiều dẫn đến một số lượng hồ sơ khách hàng bằng giấy khổng lồ, chưa kể khi cần việc trích xuất, cập nhật thông tin khách hàng về sử dụng dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS gặp rất nhiều khó khăn.
Nhằm hạn chế các nhược điểm trong quản lý khách hàng bằng phương pháp giấy tờ hay sổ sách truyền thông, thời gian qua một số nhân viên tiếp cận cộng đồng hoặc một số dự án đã triển khai ứng dụng quản lý khách hàng bẳng máy tính với việc sử dụng phần mềm excel cho các nhân viên tiếp cận cộng đồng. Dù việc sử dụng phầm mềm excel đã đáp ứng được một phần nhu cầu lưu trữ, quản lý và báo cáo hoạt động của dự án nhưng vẫn còn những nhược điểm như quá nhiều sổ sách, mất thời gian nhập từ file giấy, tổng hợp, phân tích, báo cáo và theo thời gian, cơ sở dữ liệu của dự án ngày càng nhiều nên việc quản lý dữ liệu khách hàng, theo dõi, trích xuất dữ liệu phục vụ công tác quản lý vẫn gặp nhiều khó khăn.
Với mục đích có một phần mềm quản lý khách hàng đơn giản để các tổ chức cộng đồng có thể dễ dàng sử dụng được nhưng vẫn đảm bảo nhu cầu quản lý dữ liệu và trích xuất dữ liệu một cách nhanh chóng phục vụ cho việc cải thiện chất lượng chương trình. Trung tâm LIFE với sự hỗ trợ của Dự án Tăng cường Kết nối cộng đồng phòng, chống HIV (C-Link) phía Nam đã phát triển phần mềm hệ thống dữ liệu cộng đồng. Sau khi phát triển phần mềm, Trung tâm đã tổ chức tập huấn và hướng dẫn cho các tổ chức cộng đồng cũng như hỗ trợ từng tiếp cận viên sử dụng phần mềm này để quản lý khách hàng. Trung tâm LIFE đã triển khai áp dụng phần mềm này cho 17 CBO tham gia dự án kể từ tháng 01/2017.

Sau một thời gian sử dụng, qua phản ánh của các tiếp cận viên cộng đồng và các tổ chức cộng đồng cho thấy phần mềm có rất nhiều ưu điểm:
- Giúp tra cứu nhanh thông tin của khách hàng dựa vào mã số khách hàng;
- Quản lý danh sách khách hàng theo các phân loại riêng nhằm phục vụ cho việc chăm sóc khách hàng, ví dụ như khách hàng nhiễm HIV chưa được kết nối điều trị HIV, khách hàng bỏ trị hoặc khách hàng mất dấu,… từ đó có các giải pháp tư vấn và chăm sóc khách hàng thuận lợi, kịp thời.
- Phần mềm cũng có tính năng theo dõi tiến độ đạt được chỉ tiêu của từng tiếp cận viên, của từng CBO cũng như toàn dự án để giúp mỗi cá nhân biết được mình đã đạt được bao nhiêu so với mục tiêu đã đề ra.
- Ngoài ra, sử dụng phần mềm này cũng giúp hạn chế việc trùng lắp khách hàng vì nếu nhập trùng thông tin khách hàng thì phần mềm sẽ không cho lưu vào hệ thống.
- Một ưu việt nữa của phần mềm là giúp phân tích số liệu và trích xuất báo cáo theo thời gian được lựa chọn một cách nhanh chóng và chính xác.
Trên cơ sở thành công ban đầu, Trung tâm LIFE tiếp tục cải tiến và nâng cấp hệ thống quản lý và thu thập dữ liệu cũ lên ứng dụng trên nền tảng web với tên gọi quản lý sức khỏe khách hàng trên nền tảng số (Digital Health – D.Health). D.Health dựa trên web hiện đã được các CBO thuộc dự án do LIFE quản lý sử dụng để lưu trữ dữ liệu dự án nhằm theo dõi việc sử dụng dịch vụ của khách hàng, cung cấp dịch vụ của các tổ chức cộng đồng và hiệu suất tổng thể của chương trình. Ngoài ra, D.Health còn giới thiệu các thông tin và dịch vụ khác như xét nghiệm giáo dục, tự kiểm tra, PrEP, STIs, tư vấn sức khỏe tình dục, kỳ thị và phân biệt đối xử …

D.Health cũng có không gian để các CBO tổ chức cũng như khách hàng tham gia các sự kiện trực tuyến, trò chơi, câu đố và thực hiện khảo sát có cấu trúc. Để tăng khả năng hiển thị và khả năng tiếp cận của các dịch vụ được quảng bá thông qua D.Health, C-Link đã nâng cấp D-Health thành một ứng dụng di động để phục vụ như một cửa hàng trực tuyến do CBO quản lý.
Với mong muốn không chỉ hỗ trợ cho các CBO trong quản lý khách hàng, tương tác với khách hàng, phần mềm còn tiếp tục được nghiên cứu và nâng cấp để có thể chia sẻ thông tin giữa các tổ chức cộng đồng và các cơ sở cung cấp dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS để tạo ra cơ sở dữ liệu chung trong toàn tỉnh, thành phố. Khi hệ thống dữ liệu này được kết nối, việc giới thiệu khách hàng đến các cơ sở nhận dịch vụ như điều trị ARVhoặc PrEP cũng sẽ được tích hợp vào nhóm dữ liệu chung của tỉnh, thành phố. Sau khi việc kiểm tra dữ liệu đã được thực hiện tại kho dữ liệu tỉnh, thành phố và các đơn vị có thẩm quyền cũng sẽ xác nhận trở lại hệ thống và khi đó việc chuyển tuyến ART hay PrEP có thể được coi là thành công, điều này sẽ kích hoạt việc giải quyết hoàn trả cho CBO đối với chi phí giới thiệu và chuyển tiếp khách hàng một cách nhanh chóng.

Có thể nói việc sử dụng công nghệ số trong quản lý các chương trình phòng, chống HIV/AIDS là xu hướng tất yếu và là việc cần phải được thực hiện càng sớm càng tốt với tất cả các dự án. Nó sẽ giúp không chỉ người quản lý, nhân viên tiếp cận cộng đồng triển khai, quản lý chương trình, khách hàng một cách khoa học và hiệu quả mà còn có khả năng cung cấp thông tin và tương tác với khách hàng một cách trực tiếp và sinh động hơn thông qua điện thoại di động có kết nối internet. Chúng tôi tin rằng việc sử dụng công nghệ số trong quản lý chương trình sẽ giúp cho việc quản lý, cải thiện chất lượng dự án và đóng góp vào sự phát triển bền vững của tổ chức.
Tuy nhiên để nên tảng công nghệ số trong các dự án phòng, chống HIV/AIDS của các tổ chức cộng đồng cũng đòi hỏi các tổ chức phải có nguồn lực nhất định bao gồm cả nguồn lực để phát triển phần mềm, ứng dụng; hệ thống trang thiết bị và đào tạo, tập huấn cho các CBO về việc sử dụng hệ thống này một cách hiệu quả. Một điều khác khi triển khai các ứng dụng công nghệ số này đó là luôn phải đặt quyền lợi của khách hàng là trung tâm nhất là vấn đề bảo mật thông tin cá nhân của khách hàng lên hàng đầu khi mà kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV vẫn còn là vấn đề khá phổ biến.